Tin nổi bật

Mọt hại nông sản

LIPOSCELIS

Bộ: Psocoptera.

Họ: Liposcelidae.

Tên chung: Psocids hoặc Booklice.

Tên Việt Nam: mò, mạt.

Kích thước nhỏ, Thân dẹt, mầu xám, lông dài - giống râu, Liposcelis Spp. không có cánh nhưng nhiều loài Psocoptera khác lại có cánh. ăn thịt xác thối sâu bọ và ngũ cốc bảo quản nói chung: Ngũ cốc nghiền, lương thực chế biến và gia dụng. Phần lớn xuất hiện trong các vật liệu nhẹ và ẩm.

· Vòng đời (Liposcelis bostrichoplila).

+ Điều kiện sống thuận lợi nhất: 21 ngày, 30oC, Độ ẩm 70%.

+ Trung bình: Từ 18 - 36oC, độ ẩm tối thiểu 60%.

· Đặc điểm sinh thái học:

+ Trứng: Xếp đặt không theo thứ tự.

+ Nhộng: Tương tự kích thước con trưởng thành nhưng nhỏ hơn và mầu xám.

+ Con trưởng thành: Sống lâu, ăn, di chuyển nhanh bằng cách nhảy.

· Đặc điểm giống với côn trùng khác:

Liposcelis thường không bị lẫn với các côn trung hại kho khác, một vài loài khác trong bộ Psocoptera xuất hiện trong kho có cánh, đôi khi Liposcelis có thể bị nhầm lẫn với bét. Bét có 4 đôi chân hơn là 3 (Như Liposcelis), Không có râu và cấu trúc thân của chúng không cosự tách biệt rõ ràng thành đầu, ngực và bụng như côn trùng cùng loại. Phần lớn loài bét không di chuyển nhanh hoặc nhảy như loài Liposcelis.

· Tầm quan trong về mặt kinh tế (ý nghĩa kinh tế).

Liposcelis không được đáng giá (Nhìn nhận) là loài côn trùng hại nguy hiểm cho ngũ cốc bảo quản. Tuy nhiên đôi khi mật độ lớn của chúng có thể tụ lại trong ngũ cốc hàng hoá gây bẩn cho ngũ cốc với số lượng lớn cá thể bị chết. Xét về sự phá hoại vật chất mà chúng có thể gây ra cho ngũ cốc là không đáng kể. Trong khi chúng không gây ra sự thiệt hại về khối lượng mà chúng ăn thì phải lưu ý tới mầm của ngũ cốc nếu chúng gia tăng về số lượng.

Chúng thường là các côn trùng nội địa và cóthể thấy sự phá hoại các vật dụng trong các bảo tàng và thư viện. Tại nhiều khu vực trên thế giới chúng thường xuất hiện trong thực phẩm chế biến.

· Giới hạn vật chất và các điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng.

Loài Liposcelis sinh sản nhanh ở các điều kiện khí hậu nóng ẩm chúng chịu được độ ẩm thấp khi nhiệt độ ở tại hoặc gần sát điểm thuận lợi nhất. Chúng không thể sống lâu tại độ ẩm dưới 60%. Dưới độ ẩm đó các cá thể mất nhiều nước (Vào không khí) hơn là phần nước chúng có thể thu được từ độ ẩm hàng hoá. Nhiều loài Liposcelis vẫn có thể

sống lâu trong các toà nhà không được sưởi ấm tại Bắc Âu. Loài Liposcelis bostrichophila trưởng thành cũng có thể sống lâu trừ khi nhiệt độ dưới 0oC. Loài Liposcelis paeta được xem như 1 ngoại lệ khi chúng chịu được nhiệt độ rất cao.

· Phân bố.

Loài Liposcelis bao gồm hơn 12 loài và được phân bố hầu khắp trên thế giới . Toàn bộ loài Liposcelis chính ( Gồm: Liposcelis bostrichophila, L. decolor, L. entômphila, L. paeta, L. corrodens), trong sản phẩm bảo quản được tìm thấy trên toàn thế giới. Khoảng 8 loài được tìm thấy trên sản phẩm bảo quản ở Austraylia, bao gồm tất cả các loài chính nêu trên trong đó 3 loài Liposcelis bostrichophila, L. decolor, L. entomophila được phân bố rộng rãi. Loài L. bostrichophila là loài phân bố rộng rãi nhất, L. decolor thường có trong ngũ cốc bảo quản ở nửa miềm nam Austraylia. Các bang Phía nam loài L. entomophila xuất hiện chủ yếu theo vùng duyên hải, tuy nhiên tại đảo Queensland loài này được phân bố rộng rãi hơn. Các công trình nội địa, văn phòng, cửa hiệu, nhà máy, bảo tàng xuất hiện hầu hết là loài L. bostrichophilia.

Tại các vùng ẩm ướt ở đông nam á, L. entomophilia và L. bostrichophilia thường thấy cư trú trong ngũ cốc bảo quản.

· Vòng đời.

Trứng được xếp lộn xộn trên vật liệu mà chúng xâm nhập. Tại 27oC con cái đẻ khỏang 1 trứng/ngày. Trứng sẽ nở trong khỏang 1 tuần ở 27oC . Sự biến thái không đầy đủ ở bộ Psocoptera, con nhộng thì tương tự con trưởng thành nhưng nhỏ hơn và mầu xám hơn. Cả con trưởng thành và nhộng đều ăn, con trưởng thành sống khá lâu khoảng vài tháng ở 30oC. 6 tháng hoặc hơn ở 20oC. Hình thức sinh sản - Giới tính trong tất cả các loài hại kho trừ L. bostrichophila trong quần thể L. bostrichophila con cái có khả năng đẻ trứng không cần tới sự giao hợp của con đực.

· Thức ăn.

Loài Liposcelis là loài ăn tạp và có thể ăn hầu hết sản phẩm bảo quản có nguồn gốc động thực vật. Chúng có thể ăn đất xốp và các loại keo sản xuất từ động vật. Chúng ăn mọi loại ngũ cốc và các sản phẩm từ ngũ cốc. Sự phân bố rộng rãi của chúng còn được tìm thấy trên các loại rau như câu đậu Lupin.

Liposcelis có thể tấn công trứng của các côn trùng hại kho khác.

· Đặc điểm sinh học.

Nhiều loài Liposcelis có thể tìm thấy trong môi trường tự nhiên như trong rác, tổ chim, phân ủ, trong vỏ cây và trong các lùm cỏ đã chết. Cộng đồng này có thể tạo một nguồn liên tiếp cho sự tái xâm nhập, phá hoại.

Một mối liên kết được tạo ra giữa các chất khử trùng nghèo (Nồng độ thấp) và sự tác động tới khả năng xâm nhập, phá hoại của loài Liposcelis trong ngũ cốc bảo quản: Một vài giống của một số loài Liposcelis, đặc biệt ở giai đoạn trứng lại chịu được sự tác động của phosphine. Liposcelis vẫn có thể sống được sau sự tác động của chất khử trùng đã được làm nghèo (Giảm nồng độ) trong khi các loài ăn chúng lại không thể. Liposcelis có thể bị tiêu diệt bởi các chất khử trùng thông thường, thực hiện phù hợp với các khuyến cáo đã được công bố.

· Kiểu gây hại và các triệu chứng.

Liposcelis đào (Khoét) vào nội nhũ xốp của vật bị xâm hại hay ngũ cốc đã vỡ. Chúng sẽ ăn trước tiên vào mầm ngũ cốc nếu có thể tới được. Thân hình nhỏ và dẹt của chúng gúp chúng thật sự dễ ràng xâm nhập vào cả những kiện hàng được bọc kín nhất. Liposcelis cũng là 1 trở ngại cho thực vật đóng gói khi chúng bám chặt dưới lớp màng bọc của hộp đóng sản phẩm.

Trong ngũ cốc bảo quản mật độ khổng lồ của chúng là vấn đề đáng chú ý, chẳng hạn trong các buồng Silo đứng, sự bết lại của các cá thể đã hoặc sắp chết ở phía tên hay trong đường ống dẫn sẽ ảnh hưởng tới các lỗ xả. Các đống bết đó cũng có thể có trên đường đi phía trên gây trơn trượt khi đi lại gây nguy hiểm.

· Kẻ thù tự nhên.

Liposcelis là mồi của số lớn các sinh vật hại và loài nhện, Trong số này bao gồm cả loài bét ăn thịt Blattiscocus tarsalis, Pseudoscorpions và rệp Xylocoris.

· Mô tả.

Liposcelis không có cánh, rất mỏng, dài khoảng 1mm có râu xúc giác dài, màu sắc biến đổi từ xám tro tới nâu đen phụ thuộc vào loài và mức độ trưởng thành, Đùi của chân sau rất rộng và dẹt. Chúng di chuyển nhanh bằng cách nhảy và có thể di chuyển giật lùi nhanh như di chuyển về phía trước.

Việc nhận dạng phần lớn các loài là rất khó và đòi hỏi sự xem sét kỹ lưỡng ở độ phóng đại cao của kính hiểm vị phát quang được xử lý đặc biệt. Riêng loài liposcelis entomophila có thể nhận dạng 1 cách tin cậy từ mẫu vật sống ở độ phóng đại thấp. Bụng của mẫu vật trưởng thành thể hiện rõ các vạch đen ở phần bên.



Tư vấn và khảo sát miễn phí mời liên hệ hotline: 0904 813 959
 

Các tin khác